Home / Hôn nhân gia đình / Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung thì giải quyết như thế nào? Theo quy định hiện nay, con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân mặc dù không có cùng huyết thống với người chồng mà các bên không có ý kiến gì thì đứa trẻ mới sinh ra đó sẽ là con chung của vợ chồng, khi đó quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với đứa trẻ đó sẽ được thực hiện theo quy định pháp luật về con chung của vợ chồng. Tuy nhiên, nếu một bên không đồng ý việc đứa trẻ mới sinh ra là con chung của vợ chồng thì có quyền tiến hành các thủ tục để từ chối nhận con hoặc nhận con theo quy định pháp luật.

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung

1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung thì giải quyết như thế nào?

Tại Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định trường hợp con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung của vợ chồng (không cùng huyết thống) thì vẫn được xem là con chung của vợ chồng, trừ trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.

Về vấn đề con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng hông cùng huyết thống được pháp luật quy định rõ ràng trong Luật hôn nhân và gia đình, cụ thể tại Điều 88 quy định như sau:

“Điều 88. Xác định cha, mẹ

1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân.
Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.
2. Trong trường hợp cha, mẹ không thừa nhận con thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định”.

Như vậy, căn cứ theo quy định tại Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì trường hợp con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không cùng huyết thống với cha thì vẫn được xem là con chung của vợ chồng, trừ khi người chồng không thừa nhận người con đó là con của mình thì phải có chứng cứ và được Tòa án công nhận.

Ví dụ: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng giận nhau và sống ly thân nhưng chưa làm thủ tục ly hôn mà trong quá trình sống ly thân, người vợ có tình cảm với người đàn ông khác và có con riêng với người đàn ông này. Khi người vợ sinh con ra thì về nguyên tắc người con này vẫn được xem là con chung của 2 vợ chồng. Khi đó người vợ tiến hành làm thủ tục đăng ký khai sinh cho con như bình thường, trừ trường hợp người chồng không thừa nhận người con đó là con của mình, hoặc người đàn ông kia muốn nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình.

Trong trường hợp người chồng không thừa nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình, hoặc người đàn ông kia muốn nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình thì phải có chứng cứ để chứng minh, đồng thời làm đơn yêu cầu Tòa án chấp nhận yêu cầu của mình.

2. Thủ tục yêu cầu Tòa án xác định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân không phải là con chung của vợ chồng

1. Đối với người chồng:

Trong trường hợp người chồng không thừa nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình (người vợ thì cho rằng đó là con của người chồng) thì người chồng tiến hành theo thủ tục tố tụng dân sự chung, theo đó người chồng làm đơn khởi và gửi đến Tòa án nhân dân có thẩm quyền để được giải quyết.

Cụ thể, để chứng minh đứa trẻ mới sinh ra không phải là con của mình thì người chồng cần chứng minh một, hoặc một số vấn đề sau đây:

  • Trong thời gian người vợ mang thai, 2 vợ chồng không sống chung, đang ly thân
  • Kết luận giám định ADN của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền thể hiện không có quan hệ huyết thống
  • Kết luận giám định ADN của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền thể hiện đứa trẻ mới sinh ra có quan hệ huyết thống với người đàn ông khác
  • Người chồng bị đau ốm không thể có khả năng quan hệ vợ chồng;
  • Người chồng có giấy chứng nhận của cơ quan y tế bị mắc bệnh vô sinh

2. Đối với người đàn ông khác:

Trường hợp người đàn ông kia muốn nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình mà cả 2 vơ chồng đều không có ý kiến gì thì người đàn ông này “nộp tờ khai theo mẫu quy định và chứng cứ chứng minh quan hệ cha con hoặc mẹ con cho cơ quan đăng ký hộ tịch” 1 (Ủy ban nhân dân xã/ phường/ thị trấn) kèm theo “văn bản của cơ quan y tế, cơ quan giám định hoặc cơ quan, tổ chức khác có thẩm quyền ở trong nước hoặc nước ngoài xác nhận quan hệ cha con, quan hệ mẹ con” 2 (Kết luận giám định thể hiện có quân hệ huyết thống)

Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, nếu thấy việc nhận con là đúng và không có tranh chấp thì công chức tư pháp – hộ tịch sẽ ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người đàn ông đó ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã để cấp trích lục cho người đàn ông này. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 05 ngày làm việc.

Nếu người đàn ông này không có chứng cứ chứng minh quan hệ cha con thì theo khoản 2 Điều 14 Thông tư 04/2020/TT-BTP quy định các bên phải lập văn bản cam đoan về mối quan hệ cha con theo quy định, có ít nhất hai người làm chứng về mối quan hệ cha con.

Đối với trường hợp người đàn ông này muốn đăng ký nhận đứa trẻ mới sinh ra là con của mình mà người vợ, hoặc người chồng không đồng ý thì người đàn ông này phải làm đơn khỏi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự và phải chứng minh.

3. Khi nào con sinh ra là con chung của vợ chồng?

Theo quy định tại Điều 88 Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì con sinh ra trong các trường hợp sau thì được coi là con chung của vợ, chồng:

  • Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân
  • Người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân
  • Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân
  • Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

1. Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân

Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân thì mặc định đó sẽ là con chung của vợ chồng nếu các bên không có ý kiến gì. Trong trường hợp người chồng cho rằng đứa trẻ đó không phải là con của mình thì phải chứng minh, phải tiến hành các thủ tục như đã đề cập ở trên và được Tòa án chấp nhận.

2. Người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân

Trường hợp đang trong thời kỳ hôn nhân mà người vợ mang thai thì khi con được sinh ra vẫn là con chung của vợ chồng, kể cả trường hợp người vợ ngoại tình với người đàn ông khác mà có thai. Trong trường hợp này người chồng nếu muốn xác định đứa trẻ không phải là con của mình thì phải thực hiện các thủ tục nêu trên.

3. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân

Mặc dù vợ chồng đã ly hôn nhưng nếu con được inh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ ngày chấm dứt hôn nhân thì vẫn được xác định là con chung của 2 người, trừ trường hợp có người khởi kiện và được Tòa án xác định.

Ví dụ: Ngày 1/2/2025 vợ chồng được Tòa án chấp nhận cho ly hôn. Đến ngày 1/10/2025 người vợ sinh con thì nghĩa là người vợ mang thai từ khoảng tháng 1/2025, do đó xác định là người vợ mang thai trong thời kỳ hôn nhân như trường hợp số  2 nêu trên, nên đứa trẻ đó được xác định là con chung của 2 người.

4. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng.

Hiện nay tình trạng các bạn trẻ sống thử dẫn đến có con rồi mới đăng ký kết hôn diễn ra cũng khá phổ biến tại các thành phố lớn, trong trường hợp này, sau khi đăng ký kết hôn mà vợ chồng thừa nhận đó là con chung của vợ chồng thì đứa trẻ đó sẽ là con chung của vợ chồng. Khi đó vợ chồng tiến hành thủ tục theo quy định chung.

Trên đây là giải đáp các vấn đề có liên quan đến việc con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung của vợ chồng, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà các bên tiến hành thủ tục theo quy định để giải quyết vấn đề một cách hiệu quả.

4. Bản án xác định con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng không phải con chung

BẢN ÁN 01/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 của Toà án nhân dân thành phố Lai Châu, tỉnh Lai Châu. Nội dung vụ án như sau:

Trong thời gian chị Tòng Quỳnh H và anh Nguyễn Ngọc T sống ly thân, chưa giải quyết thủ tục ly hôn theo quy định của pháp luật thì chị H và anh Nguyễn Đăng S phát sinh tình cảm và có quan hệ với nhau. Đến ngày 21/9/2018 chị H sinh được bé trai, sau đó khai sinh là Nguyễn Đăng S1. Vì lúc đó chị H và anh T vẫn đang là vợ chồng nên khi khai sinh chị H vẫn để cháu S1 mang họ tên cha là anh Nguyễn Ngọc T, vì vậy anh S không thể nhận con.

Nay chị H và anh T đã ly hôn. Sau đó anh S và chị H cũng đã đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn anh S và chị H có đưa cháu S1 đi xét nghiệm ADN, kết quả xét nghiệm kết luận anh S và cháu S1 có cùng huyết thống cha con.

Vì những lý do trên nên anh S làm đơn yêu cầu Tòa án công nhận anh S là cha của cháu S1 và yêu cầu Tòa án tuyên bố anh Nguyễn Ngọc T không phải là cha của cháu S1.

– Chị H ý kiến: Nhất trí với ý kiến của anh S và không có ý kiến gì.

– Ý kiến của anh T: Nhất trí và không có ý kiến gì. Kết quả xét nghiệm AND kết luận anh Nguyễn Đăng S và cháu Nguyễn Đăng S1 có cùng huyết thống cha con nên đối với yêu cầu khởi kiện của anh S đề nghị Tòa án công nhận anh S là cha của cháu S1 và yêu cầu Tòa án tuyên bố anh T không phải là cha của cháu S1.

Vì các vấn đề nêu trên, Tòa án tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Đăng S:

1. Anh T không phải là cha đẻ của cháu S1.

2. Xác định anh S là cha đẻ bé trai S1

Tìm hiểu thêm:

5/5 - (2 votes)
  1. Khoản 1 Điều 25 Luật hộ tịch.
  2. Khoản 1 Điều 14 Thông tư 04/2020/TT-BTP

Bài nổi bật

Văn phòng thám tử tư tại Huế uy tín

Bảng giá dịch vụ thám tử tại Huế mới nhất

Bạn đang muốn thuê thám tử ở Thừa Thiên Huế nhưng không biết công ty …