Bồi thường ngoại tình được không? Trường hợp một bên vợ hoặc chồng ngoại tình dẫn đến hậu quả ly hôn thì bên còn lại có quyền được yêu cầu được bồi thường thiệt hại không? Tùy thuộc vào từng trường hợp và hậu quả mà bên không vi phạm nghĩa vụ có thể yêu cầu bên vi phạm phải bồi thường thiệt hại, khoản thiệt hại đó phải được xác định trên thực tế phù hợp với tính chất và mức độ vi phạm gây ra. Dưới đây là các căn cứ để yêu cầu người ngoại tình phải bồi thường thiệt hại.
Mục lục
Có thể khởi kiện yêu cầu bồi thường do ngoại tình không?
Ngoại tình là hành vi vi phạm pháp luật, nếu gây ra thiệt hại thì phải bồ thường, do đó khi vợ hoặc chồng ngoại tình mà gây ra thiệt hại thì bên còn lại có quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu bồi thường thiệt hại, khi đó người khởi kiện có nghĩa vụ phải chứng minh có thiệt hại trên thực tế do hành vi ngoại tình gây ra.
Một là, ngoại tình là hành vi vi phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình.
Ngoại tình trước hết là một hành vi vi phạm quy định pháp luật về hôn nhân và gia đình. Tại Khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình” 1. Theo đó, hành vi ngoại tình được xem là hành vi vi phạm nghĩa vụ vợ chồng, cụ thể là vi phạm nghĩa vụ chung thủy. Mà đã vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu chế tài cụ thể. Chế tài đó có thể là chế tài về dân sự, hoặc hành chính, hoặc thậm trí là chế tài về hình sự.
Hai là, người không ngoại tình đã bị thiệt hại về mặt tình cảm.
Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình, trong mối quân hệ vợ chồng thì các bên đều có quyền được vợ, chồng của mình thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình. Đây là một quyền và cũng là một lợi ích được xem là hợp pháp trong mối quan hệ vợ chồng, do đó nếu một bên ngoại tình là đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.
Trên thực tế, việc các bên kết hôn là tự nguyện, xuất phát từ tình cảm. Xét dưới góc độ pháp lý để yêu cầu bồi thường thì các bên khi kết hôn đều có mong muốn và mục đích là được hưởng lợi về mặt tình cảm, nhưng khi một bên ngoại tình thì sẽ làm cho mục đích của bên còn ại không đạt được, do đó người ngoại tình mà gây thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng.
Ba là, người không ngoại tình có quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Khi quyền là lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì chủ thể bị xâm phạm có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết, quyền khởi kiện này đã được quy định rõ tại Điều 4 và Điều 186 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
“Điều 4. Quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác”.
“Điều 186. Quyền khởi kiện vụ án
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Tòa án có được từ chối khi có đơn khởi kiện yêu cầu bồi thường do ngoại tình?
Mặc dù pháp luật chưa có quy định về việc bồi thường thiệt hại do ngoại tình nhưng nếu có người khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi ngoại tình gây ra thì Tòa án phải thụ lý giải quyết, khi đó Tòa án sẽ áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết.
Tại khoản 2 Điều 4 BLTTDS quy định như sau: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng”. Theo đó, khi quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mà bị xâm phạm thì Tòa án phải thụ ý giải quyết, nếu như pháp uật chưa cs quy định về vấn đề đó thì Tòa án sẽ áp dụng các nguyên tắc cơ bản trong BLDS và BLTTDS để giải quyết.
1. Áp dụng tập quán để giải quyết đơn kiện yêu cầu bồi thường do ngoại tình: “Tòa án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không quy định” 2.
2. Áp dụng tương tự pháp luật đê quyết yêu cầu bồi thường ngoại tình: “Tòa án áp dụng tương tự pháp luật để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng” 3.
3. Áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để yêu cầu bồi thường do ngoại tình: “Tòa án áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết vụ việc dân sự khi không thể áp dụng tập quán, tương tự pháp luật”4.
Bản án vợ ngoại tình có con riêng phải bồi thường thiệt hại cho chồng
BẢN ÁN 04/2020/DS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH BA, TỈNH PHÚ THỌ
Ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Ba xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số: 44/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
– Nguyên đơn: Anh Đinh Hồng V, sinh năm 1986 (có mặt).
– Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1990 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguyên đơn ( anh V) trình bày: Tôi và chị H kết hôn với nhau năm 2009. Quá trình kết hôn, vợ chồng có 02 con chung là Đinh Thị Hồng G, sinh 01/3/2010 và Đinh Tùng L, sinh ngày 15/12/2015. Sau khi kết hôn, tôi làm nghề buôn bán lâm sản và lái xe. Chị H ở nhà nuôi con. Chị H không nghề nghiệp cho đến khi chúng tôi ly hôn.
Do chị H không chung thuỷ nên cháu L không phải là con tôi. Nội dung này sau khi giám định ADN tôi mới biết.
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, việc tôi lấy vợ, sinh con là mục đích được hưởng lợi về tình cảm, cậy nhờ con khi tuổi già. Tuy nhiên việc cháu L không cùng huyết thống với tôi nhưng tôi đã phải nuôi cháu L từ khi sinh ra tháng 12/2015 đến tháng 3/2020 là 4 năm 3 tháng (51 tháng).
Tôi đề nghị chị H phải thanh toán cho tôi tiền nuôi dưỡng đối với cháu L với số tiền là 121.000.000đ. Cụ thể:
– Tiền ăn: 40.000đ/ ngày (1.200.000đ/ tháng);
– Tiền sữa: 10.000đ/ ngày (300.000đ/ tháng);
– Tiền bỉm: 450.000đ/ tháng (trong hai năm);
– Tiền quần áo: 3.000.000đ/ năm (250.000đ/ tháng).
– Tiền thuốc men khi ốm đau: 2.000.000đ/ năm (166.000đ/tháng);
– Tiền chi phí mổ đẻ cho chị H: 15.000.000đ.
– Tiền học nhà trẻ từ 3 tuổi: 7.000.000đ/ năm (600.000đ/ tháng)”.
Tại phiên toà anh đề nghị bồi thường tiền công chăm sóc 2.000.000 đồng/tháng.
Bị đơn (chị H) trình bày: Trong thời gian hôn nhân với anh Đinh Hồng V, chị có đi buôn bán và có quan hệ ngoài luồng và có thai với người khác. Tuy nhiên anh V chấp nhận việc chị có thai với người khác và sinh ra cháu L, anh V chấp nhận nuôi để làm phúc. Chị không đồng ý bồi thường vì trong thời kỳ hôn nhân anh V cũng có quan hệ ngoài luồng và anh V đã chấp nhận sự kiện trên.
Về thu nhập nuôi con chị H trình bày: “Trong thời gian chung sống, từ tháng 10/2009 – tháng 11/2011, tôi ở nhà chăm con, phụ với bố mẹ chồng không có thu nhập, khi đó anh V đang trong quân đội. Tháng 12/2011 – tháng 7/2015 tôi và anh V buôn bán quế cùng nhau, trung bình thu nhập của cả hai chúng tôi 20.000.000đ/ tháng. Đến tháng 8/2015 – tháng 5/2016 tôi nghỉ ở nhà sinh con, chăm con, lo trông thợ xây nhà, không có thu nhập. Tháng 6/2016 – tháng 02/2020 – tôi kinh doanh quần áo sau đó chuyển sang kinh doanh quán bia, thu nhập bình quân 6.500.000đ/ tháng. Còn anh V làm nghề lái xe, có thu nhập.
Trong thời gian tôi đi làm có thu nhập thì anh V không đưa tiền cho tôi trang trải cuộc sống mà chỉ có trả tiền lãi, tiện điện. Thời gian tôi nghỉ ở nhà không có thu nhập, anh V có để cho tôi chi tiêu trung bình 3.000.000đ/ tháng.
Khi tôi sinh cháu L là sinh mổ chi phí hết 10.000.000đ, anh V đã chi trả cho bệnh viện khoản tiền này. Chi phí nuôi cháu L hàng tháng: Tiền ăn, tiền sữa, tiền bỉm 1.000.000đ/ tháng (ở nhà và trường). Tiền học ở trường 2.200.000đ/ năm. Tiền mua quần áo 2.000.000đ.
Đến nay anh V yêu cầu tôi bồi thường 2.100.000đ tôi không đồng ý, vì khi tôi có bầu, anh V nói là không phải con của anh anh vẫn nuôi làm phúc cho con anh sau này, anh V cũng thừa nhận là con anh bằng cách đăng ký khai sinh, nuôi dạy con. Hơn nữa tôi cũng là người chăm sóc, nuôi dưỡng con, không riêng mình anh V. Tôi không đồng ý thanh toán bất kỳ khoản tiền nào cho anh V”.
Tại phiên toà chị chấp nhận bồi thường chi phí nuôi cháu Đinh Tùng L là 50.000.000 đồng. Xác nhận chi phí khi sinh là 12.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Nội dung tranh chấp do nguyên đơn yêu cầu là: Bồi thường khoản tiền chi phí nuôi dưỡng cháu Đinh Tùng L do anh bị lừa dối vì cháu Đinh Tùng L không phải là con đẻ, đồng thời yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần. Mặc dù hiện nay chưa có Án Lệ về vụ việc tương tự, pháp luật không quy định đầy đủ trong trường hợp này, nhưng xét thấy:
Chị Nguyễn Thị Thanh H đã vi phạm khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”.
Tại bản tự khai ngày 10/12/2020 chị H thừa nhận không chung thuỷ và cháu L không phải là con của anh V. Chị cho rằng khi chị mang thai anh Đinh Hồng V biết cháu L không phải là con của anh nhưng anh vẫn chấp nhận để nuôi làm phúc. Nhưng chị không đưa ra được chứng cứ nào. Do vậy, việc anh Đinh Hồng V yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần vì anh bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín do hành vi của chị Nguyễn Thị Thanh H gây ra là có căn cứ.
Thiệt hại về vật chất và tinh thần của anh V đương nhiên được mọi người trong xã hội thừa nhận, do vậy cần buộc chị H phải có trách nhiệm bồi thường.
Về căn cứ bồi thường: Ngoài căn cứ theo khoản 1 Điều 584 Bộ luật Dân sự Toà án còn áp dụng quy định chung theo Điều 3 BLDS và Lẽ công bằng theo quy định của BLDS để buộc bồi thường. Điều 6 Bộ luật dân sự.
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, mọi việc làm đều có mục đích. Anh V nuôi dưỡng chăm sóc cháu Đinh Tùng L là được hưởng lợi về mặt tình cảm và trông cậy lúc tuổi già. Nhưng mục đích ấy đã không đạt được. Vì vậy, người gây thiệt hại phải có trách nhiệm bồi thường là phù hợp với quy định chung của pháp luật và vì lẽ công bằng.
Xét về mức bồi thường: Trong quá trình nuôi dưỡng cháu L (51 tháng) anh V trình bày chị Nguyễn Thị Thanh H không có nghề nghiệp, không có thu nhập. Chị Nguyễn Thị Thanh H trình bày chị có kinh doanh buôn bán và có thu nhập. Các bên có lời khai khác nhau, tuy nhiên theo Luật Hôn nhân và gia đình việc nội trợ gia đình được coi là lao động có thu nhập do đó thu nhập của anh V và trách nhiệm nuôi dưỡng cháu L được tính cho cả chị H. Do vậy mức chi phí nuôi dưỡng được tính bằng ½ tổng chi phí.
Theo kê khai của anh V thì tổng chi phí là 121 triệu đồng. Theo xác nhận của UBND xã Mỹ Lung chi phí nuôi dưỡng một cháu nhỏ từ 0 tuổi đến 5 tuổi là từ 2.000.000 đồng đến 2.200.000 đồng/tháng. Toà án lấy mức bình quân là 2.100.000 đồng làm cơ sở để bồi thường.
Về chi phí khi sinh cháu L: Anh V khai chi phí 15 triệu đồng, chị H thừa nhận chi phí là 12 triệu đồng do anh V chi trả. Số tiền này cần buộc chị H phải thanh toán cho anh Đinh Hồng V bằng 1/2.
Về mức bồi thường tổn thất tinh thần: Anh V yêu cầu bồi thường ở mức cao nhất là 10 tháng lương cơ bản, Hội đồng xét xử quyết định ở mức 08 tháng lương cơ bản.
Về tiền công chăm sóc: Thực tế chị H giành nhiều thời gian chăm sóc cháu L hơn, do vậy cần buộc chị H thanh toán một phần cho anh V.
Về án phí: Do yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: Điều 3; Điều 6; Khoản 1 Điều 584; Điều 585; Điều 592 Bộ luật dân sự 2015; Điều 43; Khoản 2, 3 Điều 45; Khoản 1 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh V.
Buộc chị H phải thanh toán (bồi thường) tiền cho anh V các khoản tiền sau:
1/Tiền chi phí nuôi dưỡng cháu L với thời gian 51 tháng x 1.050.000 đồng/tháng = 53.550.000 đồng (không bao gồm tiền công chăm sóc).
2/Tiền tổn thất tinh thần cho anh V bằng 08 tháng lương cơ bản x 1.490.000 đồng = 11.920.000 đồng.
3/Tiền chi phí khi sinh là 6.000.000 đồng.
4/Tiền công chăm sóc 500.000đ/tháng x với thời gian 51 tháng =25.500.000 đồng.
Tổng cộng mục 1+2+3+4 = 96.970.000 đồng (chín mươi sáu triệu, chín trăm bảy mươi ngàn đồng).
Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật, người có nghĩa vụ nếu chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì còn phải trả tiền lãi theo lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán Trong trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
* Về án phí: Chị H phải chịu 4.848.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn trả cho anh V số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) theo phiếu thu tiền tạm ứng án phí số AA/2016/0001605 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thanh Ba.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
One comment
Đọc thêm: Luật hôn nhân gia đình 2025 mới nhất bác Tô Lâm nói về ngoại tình?