Chồng làm đơn ly hôn có phải bồi thường cho vợ không? Luật bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn hiện nay được quy định như thế nào? Khi nào vợ khởi kiện chồng yêu cầu bồi thường thiệt hại thì được Tòa án chấp nhận? Trong hôn nhân nếu các bên có thỏa thuận mà thỏa thuận đó không trái pháp luật thì sẽ được chấp nhận, trong trường hợp các bên không tự thỏa thuận được thì một trong các bên có quyền khởi kiện ra Tòa án, tùy theo từng trường hợp cụ thể mà yêu cầu đó có được Tòa án chấp nhận hay là không.
Mục lục
I. Luật bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn
Hiện nay không có bất kỳ một văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về việc bồi thường tuổi thanh xuân khi ly hôn, do đó khi ly hôn mà một bên yêu cầu bồi thường tuổi thanh xuân thì sẽ không được Tòa án chấp nhận, trừ trường hợp bên còn lại tự nguyện bồi thường một khoản tiền để đền bù tuổi thanh xuân.
Hôn nhân là dựa trên cơ sở tự nguyện, việc đăng ký kết hôn phải nhằm mục đích xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con cái, nếu hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được thì khi đó có thể lựa chọn ly hôn. Khi ly hôn, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên về con cái và tài sản sẽ do các bên tự thỏa thuận, trong trường hợp không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với thỏa thuận khi ly hôn, người chồng phải bồi thường cho người vợ một khoản tiền, hoặc bằng một tài sản để bù đắp tổn thất về thanh xuân cho người vợ mà nếu thỏa thuận đó không nhằm trốn tránh nghĩa vụ của người chồng với bên thứ 3 thì thỏa thuận đó có hiệu lực và được thực hiện. Tuy nhiên, trong trường hợp khi ly hôn, vợ chồng cùng thỏa thuận về việc chồng sẽ bồi bù đắp tổn thất thanh xuân cho người vợ bằng cách để lại hết tài sản cho người vợ nhưng thực chất là vợ chồng hoặc người chồng đang cố tình trốn tránh nghĩa vụ của người chồng đối với bên thứ 3 thì thỏa thuận đó sẽ bị vô hiệu.
Trong trường hợp ly hôn mà người vợ muốn được người chồng đền bù tuổi thanh xuân nhưng người chồng không đồng ý thì yêu cầu của người vợ cũng sẽ khó có thể được thực hiện, khi đó người vợ phải chứng minh được trên thực tế có thiệt hại về thanh xuân thì mới được Tòa án chấp nhận, tuy nhiên việc chứng minh này là rất khó, nếu đồng thời người chồng cũng yêu cầu người vợ phải bồi thường thanh xuân cho mình thì sẽ như thế nào?
Thanh xuân thì ai cũng có, chồng hay vợ khi lập gia đình thì cũng sẽ mất đi thanh xuân của mình, do đó khi ly hôn mà vợ kiện yêu cầu chồng phải bồi thường tổn thất tuổi thanh xuân là điều không phù hợp, không phù hợp cả về mặt lý và tình.
II. Khi nào vợ khởi kiện chồng yêu cầu bồi thường thiệt hại thì được chấp nhận?
Theo quy định pháp luật, chỉ khi nào người chồng xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người vợ thì mới phải bồi thường, tùy theo tính chất và mức độ vi phạm mà mức bồ thường sẽ khác nhau. Dưới đây là một số trường hợp phổ biến người vợ có thể khởi kiện yêu cầu chồng bồi thường thiệt hại được Tòa án chấp nhận:
1. Người chồng xâm phạm đến tài sản riêng của người vợ
Ví dụ: Vợ chồng đã thỏa thuận chế độ tài sản, trong lúc vợ chồng cãi nhau người chồng đã dùng gậy đập nhiều lần vào chiếc xe oto (là tài sản riêng của người vợ) thì khi đó người chồng phải bồi thường thiệt hại cho người vợ.
Về nguyên tắc thì vợ chồng có thể tự thỏa thuận về mức bồi thường, nếu không thỏa thuận được thì người vợ có quyển khởi kiện chồng yêu cầu bồi thường thiệt hại, khi đó người chồng phải bồi thường cho vợ một khoản tiền “để sửa chữa, khôi phục lại tình trạng tài sản trước khi bị hư hỏng theo giá thị trường tại thời điểm giải quyết bồi thường để xác định thiệt hại” 1
2. Người chồng xâm phạm đến tính mạng của người vợ
Trường hợp người chồng mà xâm phạm đến tính mạng của người vọ thì tùy theo tính chất mà phải bồi thường cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người vợ các khoản chi phí sau:
- Chi phí hợp lý cho việc mai táng;
- Tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng;
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người vợ
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người vợ
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người vợ trong thời gian điều trị; nếu người vợ mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người vợ
- Thiệt hại khác do luật quy định.
- Một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 100 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
3. Người chồng xâm phạm đến sức khỏe của người vợ
Trường hợp người chồng mà xâm phạm đến sức khỏe của người vọ thì tùy theo tính chất mà phải bồi thường cho người vợ các khoản chi phí sau:
- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người vợ
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người vợ
- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người vợ trong thời gian điều trị; nếu người vợ mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người vợ
- Thiệt hại khác do luật quy định.
- Một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá 50 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
4. Người chồng xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người vợ
Nếu người chồng xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người vợ thì phải bồ thường, mức bồi thường do vợ, chồng thỏa thuận, nếu không thỏa thuận được thì theo quy định, người chồng phải bồi thường những khoản tiền sau:
- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;
- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;
- một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa không quá 10 lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
- Thiệt hại khác do luật quy định.
III. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại giữa vợ chồng
Về nguyên tắc bồi thường thiệt hại giữa vợ, chồng được quy định tại Công văn 81/2002/TANDTC như sau:
“Theo quy định tại Điều 42 Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là BLHS 2015), các Điều 609, 610 và 613 Bộ luật dân sự (nay là BLDS 2015) thì người chồng (hoặc người vợ) phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 39 Bộ luật tố tụng hình sự (nay là BLTTHS 2015) thì việc Toà án có buộc người chồng (hoặc người vợ) phải bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm hay không là phụ thuộc vào người bị hại có yêu cầu hay không.
Trong trường hợp người bị hại là người vợ (hoặc người chồng) có yêu cầu thì Toà án cần buộc người chồng (hoặc người vợ) có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người vợ (hoặc người chồng) do sức khoẻ bị xâm phạm. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần chú ý là quan hệ giữa bị cáo và người bị hại là vợ chồng cho nên còn bị Điều chỉnh bởi Luật hôn nhân và gia đình; do đó, khi quyết định việc bồi thường thiệt hại cần chú ý đến các quy định của Luật hôn nhân và gia đình về trách nhiệm, nghĩa vụ của vợ, chồng; về chế độ tài sản riêng, tài sản chung của vợ, chồng…” 2
IV. Bản án chồng yêu cầu vợ bồi thường thiệt hại do ngoại tình
BẢN ÁN 04/2020/DS-ST NGÀY 28/05/2021 VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Ngày 28 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thanh Ba xét xử sơ thẩm vụ án Dân sự thụ lý số: 44/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc “Yêu cầu bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2020/QĐXXST ngày 12 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:
– Nguyên đơn: Anh Đinh Hồng V, sinh năm 1986.
– Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1990.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Anh V trình bày: Tôi và chị H kết hôn với nhau năm 2009. Quá trình kết hôn, vợ chồng có 02 con chung là Đinh Thị Hồng G, sinh 01/3/2010 và Đinh Tùng L, sinh ngày 15/12/2015. Do chị H không chung thuỷ nên cháu L không phải là con tôi. Nội dung này sau khi giám định ADN tôi mới biết.
Hoạt động của con người là hoạt động có ý thức, việc tôi lấy vợ, sinh con là mục đích được hưởng lợi về tình cảm, cậy nhờ con khi tuổi già. Tuy nhiên việc cháu L không cùng huyết thống với tôi nhưng tôi đã phải nuôi cháu L từ khi sinh ra tháng 12/2015 đến tháng 3/2020 là 4 năm 3 tháng (51 tháng).
Tôi đề nghị chị H phải thanh toán cho tôi tiền nuôi dưỡng đối với cháu Đinh Tùng L với số tiền là 121.000.000đ. Cụ thể:
– Tiền ăn: 40.000đ/ ngày (1.200.000đ/ tháng);
– Tiền sữa: 10.000đ/ ngày (300.000đ/ tháng);
– Tiền bỉm: 450.000đ/ tháng (trong hai năm);
– Tiền quần áo: 3.000.000đ/ năm (250.000đ/ tháng).
– Tiền thuốc men khi ốm đau: 2.000.000đ/ năm (166.000đ/tháng);
– Tiền chi phí mổ đẻ cho chị H: 15.000.000đ.
– Tiền học nhà trẻ từ 3 tuổi: 7.000.000đ/ năm (600.000đ/ tháng)”.
Tại phiên toà anh đề nghị bồi thường tiền công chăm sóc 2.000.000 đồng/tháng.
Chị H trình bày: Trong thời gian hôn nhân với anh V, chị có đi buôn bán và có quan hệ ngoài luồng và có thai với người khác. Tuy nhiên anh V chấp nhận việc chị có thai với người khác và sinh ra cháu L, anh V chấp nhận nuôi để làm phúc. Chị không đồng ý bồi thường vì trong thời kỳ hôn nhân anh V cũng có quan hệ ngoài luồng và anh V đã chấp nhận sự kiện trên.
Tại phiên toà chị chấp nhận bồi thường chi phí nuôi cháu L là 50.000.000 đồng. Xác nhận chi phí khi sinh là 12.000.000 đồng.
Tòa án nhận định:
Chị H và anh V là vợ chồng (đã li hôn ngày 06/2/2020), quá trình chung sống chị H đã vi phạm khoản 1 Điều 19 Luật hôn nhân và gia đình “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Từ việc vi phạm nghĩa vụ trên dẫn đến vụ việc Toà án giải quyết hiện nay.
Tại bản tự khai ngày 10/12/2020 chị H thừa nhận không chung thuỷ và cháu L không phải là con của anh V. Chị cho rằng khi chị mang thai anh V biết cháu L không phải là con của anh nhưng anh vẫn chấp nhận để nuôi làm phúc. Nhưng chị không đưa ra được chứng cứ nào. Do vậy, việc anh V yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần vì anh bị tổn thương về danh dự, nhân phẩm, uy tín do hành vi của chị H gây ra là có căn cứ.
QUYẾT ĐỊNH
* Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Đinh Hồng V.
Buộc chị Nguyễn Thị Thanh H phải thanh toán (bồi thường) tiền cho anh Đinh Hồng V các khoản tiền sau:
1/Tiền chi phí nuôi dưỡng cháu Đinh Tùng L với thời gian 51 tháng x 1.050.000 đồng/tháng = 53.550.000 đồng (không bao gồm tiền công chăm sóc).
2/Tiền tổn thất tinh thần cho anh Đinh Hồng V bằng 08 tháng lương cơ bản x 1.490.000 đồng = 11.920.000 đồng.
3/Tiền chi phí khi sinh là 6.000.000 đồng.
4/Tiền công chăm sóc 500.000đ/tháng x với thời gian 51 tháng =25.500.000 đồng.
Tổng cộng mục 1+2+3+4 = 96.970.000 đồng (chín mươi sáu triệu, chín trăm bảy mươi ngàn đồng).
Trên đây là một số nộ dung quy định pháp luật về bồ thường giữa vợ chồng, tuy nhiên cho đến thời điểm hiện tại chưa có bất kỳ một quy định pháp luật hay án lệ nào quy định về đền bù tuổi thanh xuân khi ly hôn.