Home / Hình sự / Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định mới nhất

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định mới nhất

Theo quy định Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì có bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự? Dưới đây chúng tôi sẽ phân tích và liệt kê các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định mới nhất hiện hành.

Tại Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 quy định hiện nay có 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần lưu ý rằng các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm là một trong những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng nếu như người phạm tội trực tiếp ngăn chặn tác hại do hành vi của mình gây ra, hoặc những hành vi tương tự làm giảm bớt tác hại của hành vi phạm tội.

Ví dụ: Một người hút thuốc lá sau đó vứt tàn thuốc vào nhà của một người khác vô tình làm cho nhà đó bị cháy. Khi đó, người này ngay lập tức vội vàng hô hoán để người khác cùng dập lửa với mình. Đây được xem là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả là một tình tiết giảm nhẹ thường được các luật sư bào chữa trong vụ án hình sự áp dụng nhằm mục đích giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho thân chủ.

Đối với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả” hiện vẫn còn một số vướng mắc và còn nhiều quan điểm khác nhau.

– Quan điểm 1: Chỉ cần người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại là được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này mà không cần biết bồi thường bao nhiêu. Bởi vì quy định của điều luật này không có định lượng cụ thể, do đó chỉ cần tự nguyện bồi thường thiệt hại là sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

– Quan điểm 2: Bị cáo phải bồi thường, khắc phục một số tiền đáng kể so với thiệt hại gây ra. Quy định hiện nay là quy định mang tính mở nên các Hội đồng xét xử có thể áp dụng tùy nghi, vì vậy, quan điểm này đề xuất để đảm công bằng cho các bị cáo nên cần quy định một tỉ lệ tương xứng so với thiệt hại thực tế, cụ thể ít nhất là 50% thiệt hại trở lên.

– Quan điểm 3: Hội đồng xét xử sẽ cân nhắc mức độ giảm nhẹ của tình tiết này sẽ phụ thuộc vào khả năng phục hồi của tài sản bị hư hỏng, mức độ bồi thường thực tế và khắc phục hậu quả của người phạm tội so với thiệt hại xảy ra, cũng như thời điểm tiến hành bồi thường, khắc phục hậu quả, khả năng kinh tế của người phạm tội,…

3. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

“Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại” 1.

Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là một trong các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thường thấy trong các vụ án liên quan đến trộm cắp, cướp tài sản, cố ý gây thương tích…

Những tội danh có liên quan đến “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” bao gồm Điều 126 và Điều 136 Bộ luật hình sự:

– Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

1. Người nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm”.

– Điều 136. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm:

a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

3. Phạm tội dẫn đến chết người hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm.

4. Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;

Khi một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác nhưng trong tình thế cấp thiết thì đó không phải là tội phạm. Tuy nhiên nếu như vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết thì sẽ bị coi là tội phạm.

“Tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa” 2.

Về tình tiết này, yêu cầu phải chứng minh được các vấn đề như sau:

– Mục đích của hành vi là để trách thiệt hại xảy ra.

– Không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại khác

– Thiệt hại khác phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa

5. Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

Bộ luật hình sự quy định “Hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm” 3.

Tuy nhiên, nếu như “gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự” và trường hợp này sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

6. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;

Phải có hành vi trái pháp luật (không đòi hỏi phải là trái pháp luật nghiêm trọng) của người bị hại hoặc người khác. Người khác ở đây thường là người thân thích với người bị hại.

Hành vi trái pháp luật đó xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thân thích của người phạm tội.

Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đấy đủ cả hai điều kiện “phải có hành vi trái pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra” và “hành vi trái pháp luật đó xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người phạm tội hoặc xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thân thích của người phạm tội”.

Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào ai là người có hành vi trái pháp luật; hành vi trái pháp luật đó xâm phạm đến ai; mức độ nghiêm trọng của hành vi trái pháp luật v.v.

7. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;

Để được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này, bị cáo, luật sư, người bào chữa cho bị cáo cần phải xác định và chứng minh được các vấn đề sau:

– Phải do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà phạm tội. Cần phải xác định thêm rằng, người phạm tội không được lợi dụng hoàn cảnh đặc biệt khó khăn để phạm tội.

– Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn không phải do người phạm tội tự gây ra. Hoàn cảnh đặc biệt khó khăn này có thể do thiên tai, địch hoạ, chiến tranh, hoặc các hoàn cảnh khó khăn khác.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi áp dụng tình tiết “Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra” sẽ tùy thuộc vào mức độ, hoàn cảnh khó khăn và khả năng khắc phục của người phạm tội.

8. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại không xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội.

Cần lưu ý để phân biệt giữa hành vi phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại với phạm tội chưa đạt (phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội).

– Gây thiệt hại không lớn là khi tội phạm đã được thực hiện, nhưng thiệt hại xảy ra nhỏ hơn thiệt hại mà người phạm tội mong muốn và ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội.

9. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;

– Phạm tội lần đầu là trường hợp của một chủ thể mà từ trước tới nay chưa phạm tội lần nào.

Lưu ý: Đối với các trường hợp trước đó đã phạm tội và bị kết án nhưng đã được xoá án tích, hoặc chưa bị kết án nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, hoặc chưa bị kết án và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ này.

– Phải thuộc trường hợp ít nghiêm trọng: Có 2 trường hợp sau đây:

+ Phạm tội mà khung hình phạt quy định tội đó ít nghiêm trọng: ‘Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm” 4.

+ Trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng vị trí, vai trò của người phạm tội ít nghiêm trọng (thường là trong trường hợp phạm tội đồng phạm).

Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ cả hai điều kiện “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”.

10. Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;

– “Bị người khác đe doạ” là bị người khác dọa trừng phạt nếu làm trái ý họ, tạo cho người phạm tội nỗi lo sợ về một tai hoạ có thể xảy ra và để tránh tai hoạ đó người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.

– “Bị người khác cưỡng bức” là bị người khác dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác buộc người phạm tội đã phải thực hiện tội phạm.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào tính chất, mức độ, thủ đoạn đe doạ, cưỡng bức của người khác và hoàn cảnh, điều kiện tránh mối đe doạ, cưỡng bức đó.

11. Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

“Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra” là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới được bổ sung vào BLHS năm 2015. Đối với tình tiết này mặc dù hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể nhưng có thể hiểu theo tinh thần của quy định này là một số trường hợp, người thực hiện hành vi phạm tội trong khi bị hạn chế khả năng nhận thức do nguyên nhân khách quan chẳng hạn như bị cưỡng ép, lừa gạt để sử dụng chất kích thích mạnh…

Vì vậy, đối với trường hợp phạm tội khi hạn chế khả năng nhận thức không phải do lỗi của mình sẽ được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào mức độ bị hạn chế khả năng nhận thức do yếu tố khách quan mang lại.

12. Phạm tội do lạc hậu;

“Lạc hậu” là không theo kịp đà tiến bộ, đà phát triển chung. Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội do lạc hậu” nếu lạc hậu đó là do nguyên nhân khách quan đưa lại, như do đời sống xã hội nên không hiểu biết hoặc kém hiểu biết về pháp luật, không được học tập, không có điều kiện thực tế để nhận biết các đúng sai trong cuộc sống v.v.

13. Người phạm tội là phụ nữ có thai;

Phải là phụ nữ đang có thai khi thực hiện tội phạm. Nếu khi phạm tội người phụ nữ không có thai, mà đến giai đoạn xét xử bị cáo có thai thì không áp dụng tình tiết giảm nhẹ  trách nhiệm hình sự này, mà tuỳ từng trường hợp cụ thể mà áp dụng đối với phụ nữ có thai khi xét xử.

Trong trường hợp đặc biệt cũng có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ đối với phụ nữ có thai khi xét xử, nhưng phải ghi rõ trong bản án và tuân thủ quy định của pháp luật.

Người phụ nữ phải chứng minh là mình có thai khi phạm tội. Trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để kết luận người phụ nữ có thai khi phạm tội thì phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào thời kỳ mang thai, ảnh hưởng của tình trạng thai nhi đến việc thực hiện tội phạm của bị cáo.

14. Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;

Đủ 70 tuổi trở lên là người đủ 70 tuổi về ngày, tháng, năm, không được thiếu một ngày nào thì mới được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ và tội phạm đã thực hiện

15. Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng cho đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, do đó có quan điểm cho rằng tình tiết giảm nhẹ này chỉ áp dụng đối với trường hợp trước khi phạm tội người phạm tội đã là người khuyết tật nặng hoặc đặc biệt nặng.

Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trường hợp sau khi phạm tội mà tại thời điểm xét xử, người phạm tội mới bị khuyết tật hoặc khuyết tật nặng thì Toà án vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đối với người phạm tội. Vậy quan điểm nào ở đây là chính xác với tinh thần của Bộ luật Hình sự?

Việc áp dụng thời điểm người phạm tội bị khuyết tật tính từ khi nào thì chúng ta cần phải chờ đến khi có văn bản hướng dẫn cụ thể, do đó các luật sư bào chữa vụ án hình sự mà có tình tiết này thì phải lập luận bằng các luận cứ sắc bén để thuyết phục Hội đồng xét xử áp dụng cho thân chủ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này.

16. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;

Phải là người có bệnh, tức là có bệnh lý nào đó theo quy định trong y sinh học.
Bệnh đó là nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội (trong trường hợp chưa có đủ căn cứ để kết luận thì phải có kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định).

Chỉ áp dụng tình tiết này khi có đầy đủ cả hai điều kiện “người phạm tội phải có bệnh” và “bệnh đó là nguyên nhân làm hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội”.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tình tiết này phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật, mức độ hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của người phạm tội.

17. Người phạm tội tự thú;

– Tự thú “là việc người phạm tội tự nguyện khai báo với cơ quan, tổ chức về hành vi phạm tội của mình trước khi tội phạm hoặc người phạm tội bị phát hiện” 5..

Người nào bị bắt, bị phát hiện về một hành vi phạm tội cụ thể, nhưng trong quá trình điều tra tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội khác của mình mà chưa bị phát hiện, thì cũng được coi là tự thú đối với việc tự mình nhận tội và khai ra những hành vi phạm tội của mình mà chưa bị phát hiện.

Cần phân biệt “tự thú” với “đầu thú”. “Đầu thú” là việc người phạm tội sau khi bị phát hiện đã tự nguyện ra trình diện và khai báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi phạm tội của mình.

Tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án” 6. Theo đó, tự thú chắc chắn sẽ được xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, còn đầu thú có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ.

18. Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;

Bộ luật hình sự 2017 sửa đổi, bổ sung “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” thành “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”. Như vậy, để được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này thì người phạm tội phải đáp ứng được cả 2 yếu tố, đó là thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải.

Thành khẩn khai báo là trường hợp người phạm tội trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã khai đầy đủ và đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện.

Ăn năn hối cải là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm về tội lỗi của mình không chỉ bằng lời nói mà còn phải bằng những hành động, việc làm cụ thể để chứng minh cho việc mình muốn sửa chữa, cải tạo thành người tốt; bù đắp những tổn thất, thiệt hại do hành vi phạm tội của mình gây ra.

Mức độ giảm nhẹ của việc thành khẩn khai báo phụ thuộc vào sự thành khẩn được thực hiện ở giai đoạn tố tụng nào và ý nghĩa thiết thực của sự thành khẩn trong việc giải quyết vụ án; mức độ giảm nhẹ của sự ăn năn hối cải phụ thuộc vào mức độ ăn năn hối cải của người phạm tội, những hành động, việc làm cụ thể chứng minh cho sự ăn năn hối cải đó.

19. Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;

Bộ luật hình sự 2017 sửa đổi, bổ sung điểm này từ “Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm” thành “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án”.

Tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm là có thái độ chủ động, giúp đỡ nhằm tạo ra những biến đổi, thay đổi nhanh hơn trong việc phát hiện và điều tra tội phạm.

Tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm thường được thể hiện bằng việc cung cấp những thông tin, tài liệu, bằng chứng có ý nghĩa thiết thực cho việc phát hiện và điều tra tội phạm; chỉ nơi cất giấu tang vật, nơi người phạm tội khác đang trốn tránh; cung cấp thông tin về tội phạm khác, người phạm tội khác không liên quan đến mình v.v.

Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào tính chủ động, mức độ tích cực giúp đỡ; giá trị của những thông tin, tài liệu, bằng chứng mà người phạm tội đã cung cấp; hiệu quả của những hành vi giúp đỡ của người phạm tội.

20. Người phạm tội đã lập công chuộc tội;

“Đã lập công chuộc tội” là trường hợp sau khi thực hiện tội phạm cho đến khi bị xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm, GĐT, tái thẩm), người phạm tội không những ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm do họ thực hiện, mà họ còn có những hành động giúp đỡ các cơ quan có thẩm quyền phát hiện, ngăn chặn các tội phạm khác, tham gia phát hiện tội phạm, bắt kẻ phạm tội, có hành động thể hiện sự quên mình vì lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích chính đáng của người khác… được cơ quan có thẩm quyền khen thưởng hoặc chứng nhận.

Mức độ giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này phụ thuộc vào công trạng của người phạm tội và việc lập công chuộc tội đó ở giai đoạn tố tụng nào.

21. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

“Người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” là người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế, phát minh có giá trị hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua (mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP).

Thành tích xuất sắc này thường là người phạm tội phải có được trước khi phạm tội.

Mức độ giảm nhẹ phụ thuộc vào thành tích; hình thức khen thưởng; giá trị của sáng chế, phát minh; danh hiệu thi đua được công nhận; số lần được khen thưởng v.v.

22. Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.

Bộ luật hình sự 2017 sửa đổi, bổ sung điểm này từ “Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.” thành “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ”.

Như vậy, với quy định mới này sẽ giúp cho người phạm tội có cơ hội cao hơn để được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Theo đó, các trường hợp sau được giảm trách nhiệm hình sự:

– Người phạm tội là người có công với cách mạng

– Người phạm tội là cha của liệt sĩ

– Người phạm tội là mẹ của liệt sĩ

– Người phạm tội là người vợ của  liệt sĩ

– Người phạm tội là người chồng của liệt sĩ

– Người phạm tội là con của liệt sĩ

Trên đây là tổng hợp các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 mới nhất.

5/5 - (3 votes)
  1. khoản 2 điều 22 Bộ luật hình sự 2015.
  2. khoản 1 điều 23 Bộ luật hình sự 2015.
  3. khoản 1 điều 24 Bộ luật hình sự 2015.
  4. khoản 1 điều 9 Bộ luật hình sự 2015.
  5. điểm h khoản 1 điều 4 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
  6. khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự 2015.

Bài nổi bật

Khi nào bị cáo không được từ chối luật sư chỉ định?

Khi nào bị cáo không được từ chối luật sư chỉ định?

Bị cáo không được từ chối luật sư chỉ định là đúng hay sai? Những …

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *